Việc dựng ảnh từ bức xạ ion hóa đã đƣợc khám phá gần nhƣ cùng thời điểm vớ i việc phát hiện ra phóng xạ vào cuối năm 1890 [7]. Trong nhiều năm sau đó, các tấ m phim đƣợc sử dụng để chụp l ại ảnh chiếu của một đối tƣợng khi cho chùm tia X đi qua. Phƣơng thức chụp ảnh đầu tiên đƣợc áp dụng là kỹ thuật ch ụp ảnh X-quang. Việc hiển thị hình ảnh chỉ gói gọn trong kỹ thu ật tạo hình trên phim. Tuy rất hữu ích trong đánh giá tổng quát, nhƣng kỹ thu ật này lại gặp trở ngại trong những đánh giá phức tạp. Vì sau khi chụp ảnh, ta không thể thực hiện thêm những thao tác xử lý khác. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hình ảnh kỹ thuật số cũng đã ra đời, đƣợc áp dụng vào trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ƣu điểm của hình ảnh dƣới dạng số là thông tin chứa trong ảnh sẽ không lệ thuộc vào bất k ỳ môi trƣờng nào. Ta có thể ti ến hành bao nhiêu thao tác xử lý ảnh tùy ý để tăng cƣờng và mở rộng tính năng của nó mà không sợ tổn hại tới những thông tin gốc. Từ đó, các phƣơng pháp và kỹ thuật xử lý ảnh ngày càng phát triển. Không chỉ dừng lại ở đó, sự xuất hiện của ảnh k ỹ thuật số còn cho ra đời m ột phƣơng thức chụp ảnh mới, đó là chụp ảnh cắt lớp. Phƣơng pháp chụp ảnh cắt lớp gamma đƣợc ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, phục vụ cho việc kiểm tra không hủy thể. Phƣơng pháp này có thể đƣợc phân làm hai mô hình chụp khác nhau. Mô hình thứ nhất có nguồn và đầu dò nằm bên ngoài đối tƣợng cần chụp ảnh để ghi nhận tia gamma truyền qua. Mô hình này cho biết thông tin cấu trúc bên trong đối tƣợng. Mô hình còn lại là mô hình đƣợc sử dụng tron g khóa lu ậ n này. Trong đó, nguồn phóng xạ đƣợc đƣa vào bên trong đối tƣợng, đầu dò đƣợc đặt bên ngoài để ghi nhận tín hiệu. Ảnh từ mô hình này cho thấy sự phân bố nguồn phóng xạ bên trong đối tƣợng.