Sách "Nguồn gốc người Việt-người Mường "của tác giả Tạ Đức công bố rừ năm 2014, được nhiều người khen, do không nghiên cứu sâu về vấn đề này, còn người phê phán là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập qua mạng do các tác giả châu Âu...
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt NamPham LongChủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “ă hoá cũng là một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Người đã sử dụng khá nhiều bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, trong đó có nhiều bài được viết bằng thể thơ Đường luật.
Bàn thên về “Nguồn gốc người Việt- người Mường” của Tạ Đức Pham Long Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức (N.x.b Trí thức-2014) cho rằng vùng đất này có tên Giao Chỉ là đất của người Dao- Tên đất là tên người. Còn Người Việt và người Mường xưa nay khác nhau, đều là sự tổng hòa của các nhóm di dân từ phương Bắc: Người Mường vốn là người Mon, Man đến trước, chủ nhân của văn hóa Phùng Nguyên, Người Việt vốn là người Lava, đến sau, chủ nhân của văn hóa Đông Sơn. Đó là một nhận thức sai trái, lỗi thời phản lại Lịch sử của dân tộc. Bài viết này Tác giả phản bác lại luận điểm sai trái của Tạ Đức, bằng việc dùng những di vật và hoa văn xuất hiện từ thời đồ đá cũ do Tổ Tiên chúng ta sáng tạo để lại trong lòng đất, do giới khảo cổ của ta khai quật trong các di chỉ ở lưu vực sông Hồng đem lại là cùng dòng tư tưởng với phong tục tập quán của xã hội người Kinh đương đại. Di vật và hoa văn là lời nói trung thực, khách quan nhất không thể chối cãi được.
Bàn về 12 luận điểm trống đồngPham LongTạp chí ă hóa Nghệ An đăng bài “12 luận điểm chính trong một cuốn sách mới về trống đồng Đông Sơn” của tác giả Tạ Đức, với lời của tác giả: hi vọng gợi ra những ý kiến trao đổi, phản biện. Nhưng không như sách Nguồn gốc người Việt –người Mường mà nói sai thì do lòng tự tôn dân tộc cho nên sách ấy bị nhiều người phản ứng. Còn sách nói về trống đồng này có thể nhiều người ủng hộ,
Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt.docDịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 😊 Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149Cơ sở lý luận về Quá trình hình thành và phát triển trang sức của người Việt. Trang sức là một loại hình di vật đặc biệt ko chỉ có mục đích làm đẹp cho con người, mà còn biểu thị trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật chế tác qua từng thời kỳ, qua đó người xem có thể hình dung được sự phát triển về tư duy của người Việt. Bên cạnh cuộc sống mưu sinh vất vả thường nhật của con người thời đó. Từ đó vẫn còn lóe lên được cuộc sống tinh thần, tức là họ biết làm đẹp, biết trau truốt cho bản thân họ, tự tôn bản thân mình, toát lên vẻ sang trọng của người sử dụng trong giới quý tộc.
à-ٳ-ạc-䱷ݱᰭ.dzkhavyyyy22222Trên nóc nhà được trang trí hình hai con rồng bằng gốm men Thanh Mãn nên người dân thường gọi nơi đây là Nhà Rồng. Vì nằm ngay trên bến cảng
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Download luận án tóm tắt ngành văn học Việt Nam với đề tài: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 Download luận án tiến sĩ ngành văn học dân gian với đề tài: ă học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người
Thuật ngữ cồng chiêng là của người KinhPham LongViệc dẫn lại thuật ngữ cồng chiêng của người Kinh sẽ làm sáng rõ thuật ngữ “chiêng” của người Mường và “chinh chêng” của vùng Tây Nguyên.
Làm Đàn đá Tây nguyên biểu diễn giá rẻHà NộiCơ sở sản xuất Nhạc cụ Phong vân chuyên nhận đặt làm Đàn Đá Tây Nguyên biểu diễn
Đàn đá có 15 thanh đá lớn , mỗi thanh rộng khoảng 8 tới 10 cm
Chất lượng đá nhập tại các vùng Tây Nguyên
Thời gian hoàn thành 20 ngày
Hình ảnh sản phẩm:
co so lam da da dan da tay nguyen mua ban dan da dia chi ban dan da
Thông tin chi tiết về Đàn Đá:
Đàn đá (các dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam gọi là goong lu, đọc là goòng lú, tức “đá kêu như tiếng cồng”) là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người[3]. Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm trong khi thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người xưa sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộvà Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử phát hiện
Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đăk Lăk, Tây Nguyên một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Phát hiện này được báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tháng 6 năm 1950 giáo sư Georges Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, “”nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết”. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày ở Bảo tàng Con Người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Từ những năm 1979 vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa,
Luận văn Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Cao Duy Sơnlop3vnĐề tài miền núi là một trong những mảng đề tài lớn của
văn học Việt Nam hiện đại. Hiện thực và con người miền núi đã
được nhiều cây bút quan tâm, thể hiện và đạt được nhiều thành tựu.
Có thể nói, mảnh đất miền núi là nơi duy nất có sự hiện diện đầy đủ
văn hóa các dân tộc anh em. Đây cũng là một khu vực văn học đặc
biệt bởi có sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong đội ngũ sáng
tác. Mỗi nhà văn khơi sâu vào một “nguồn mạch riêng” về số phận
và bản sắc của mỗi dân tộc để góp phần tạo nên tầm vóc chung của
văn xuôi hiện đại.
Nhiều thế hệ nhà văn bao gồm cả những tài năng từ miền xuôi
gắn bó máu thịt với miền núi như Tô Hoài, Mạc Phi, Nguyên Ngọc,
Ma ă Kháng… đến những cây bút thuộc các vùng dân tộc như Đỗ
Bích Thuý, Niê Thanh Mai, Linh Nga Niê Kđăm v.v.. đều dành phần
lớn công sức và nhiệt huyết của mình cho đề tài miền núi. Hòa chung
vào dòng chảy của văn chương dân tộc, Cao Duy Sơn tạo ra một
“dòng chảy riêng” khiến cho dòng chảy chung đó “lớn”, “mạnh”, và
“đa dạng” hơn.
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)Pham LongLễ hội Trò Trám là tên của địa phương, giới khoa học gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là Lễ hội trò nhại Nõ Nường, nó là dòng Lễ hội vòng đời “hèm tục” phổ biến khắp vùng Đông Nam Á cổ, nhưng đã bị thất truyền từ giữa đầu thế kỷ XX do cuộc chiến tranh của Nhật ở vùng này.
Giám đốc của chúng tôiPham LongBài viết về Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam Nguyễn Thế Vinh, người đã lãnh đạo "Anh cả đỏ" của nghệ thuật kịch Việt Nam suốt 5 năm đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Download luận án tóm tắt ngành văn học Việt Nam với đề tài: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
luan an van hoc dan gian cao lan tu van hoa toc nguoiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 Download luận án tiến sĩ ngành văn học dân gian với đề tài: ă học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người
Thuật ngữ cồng chiêng là của người KinhPham LongViệc dẫn lại thuật ngữ cồng chiêng của người Kinh sẽ làm sáng rõ thuật ngữ “chiêng” của người Mường và “chinh chêng” của vùng Tây Nguyên.
Làm Đàn đá Tây nguyên biểu diễn giá rẻHà NộiCơ sở sản xuất Nhạc cụ Phong vân chuyên nhận đặt làm Đàn Đá Tây Nguyên biểu diễn
Đàn đá có 15 thanh đá lớn , mỗi thanh rộng khoảng 8 tới 10 cm
Chất lượng đá nhập tại các vùng Tây Nguyên
Thời gian hoàn thành 20 ngày
Hình ảnh sản phẩm:
co so lam da da dan da tay nguyen mua ban dan da dia chi ban dan da
Thông tin chi tiết về Đàn Đá:
Đàn đá (các dân tộc ở Tây Nguyên, Việt Nam gọi là goong lu, đọc là goòng lú, tức “đá kêu như tiếng cồng”) là một nhạc cụ gõ cổ nhất của Việt Nam và là một trong những loại nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người[3]. Đàn được làm bằng các thanh đá với kích thước dài, ngắn, dày, mỏng khác nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm trong khi thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì tiếng thanh. Người xưa sử dụng vài loại đá có sẵn ở vùng núi Nam Trung Bộvà Đông Nam Bộ để tạo ra nhạc cụ này. Đàn đá đã được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
Lịch sử phát hiện
Năm 1949, những người phu làm đường phát hiện tại Ndut Liêng Krak, Đăk Lăk, Tây Nguyên một bộ 11 thanh đá xám có dấu hiệu ghè đẽo bởi bàn tay con người, kích thước từ to đến nhỏ trong đó thanh dài nhất 101,7 cm nặng 11,210 kg; thanh ngắn nhất 65,5 cm nặng 5,820 kg. Phát hiện này được báo cho Georges Condominas, một nhà khảo cổ người Pháp làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Tháng 6 năm 1950 giáo sư Georges Condominas đưa những thanh đá này về Paris và chúng được nghiên cứu bởi giáo sư âm nhạc André Schaeffner. Sau đó, Georges Condominas công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí Âm nhạc học (năm thứ 33 – bộ mới) số 97-98 tháng 7 năm 1951, khẳng định về loại đàn lithophone ở Ndut Liêng Krak, “”nó không giống bất cứ một nhạc cụ bằng đá nào mà khoa học đã biết”. Hiện bộ đàn đá này được trưng bày ở Bảo tàng Con Người Paris, Pháp.
Năm 1956, trong Chiến tranh Việt Nam bộ đàn đá thứ hai được phát hiện và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Từ những năm 1979 vấn đề nghiên cứu, sưu tầm về đàn đá được giới khoa học Việt Nam khơi dậy và cho đến những năm đầu thập niên 1990, người ta tìm được khoảng 200 thanh đàn đá rải rác ở Đắc Lắc, Khánh Hòa,
Luận văn Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Cao Duy Sơnlop3vnĐề tài miền núi là một trong những mảng đề tài lớn của
văn học Việt Nam hiện đại. Hiện thực và con người miền núi đã
được nhiều cây bút quan tâm, thể hiện và đạt được nhiều thành tựu.
Có thể nói, mảnh đất miền núi là nơi duy nất có sự hiện diện đầy đủ
văn hóa các dân tộc anh em. Đây cũng là một khu vực văn học đặc
biệt bởi có sự tham gia của người dân tộc thiểu số trong đội ngũ sáng
tác. Mỗi nhà văn khơi sâu vào một “nguồn mạch riêng” về số phận
và bản sắc của mỗi dân tộc để góp phần tạo nên tầm vóc chung của
văn xuôi hiện đại.
Nhiều thế hệ nhà văn bao gồm cả những tài năng từ miền xuôi
gắn bó máu thịt với miền núi như Tô Hoài, Mạc Phi, Nguyên Ngọc,
Ma ă Kháng… đến những cây bút thuộc các vùng dân tộc như Đỗ
Bích Thuý, Niê Thanh Mai, Linh Nga Niê Kđăm v.v.. đều dành phần
lớn công sức và nhiệt huyết của mình cho đề tài miền núi. Hòa chung
vào dòng chảy của văn chương dân tộc, Cao Duy Sơn tạo ra một
“dòng chảy riêng” khiến cho dòng chảy chung đó “lớn”, “mạnh”, và
“đa dạng” hơn.
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)Pham LongLễ hội Trò Trám là tên của địa phương, giới khoa học gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là Lễ hội trò nhại Nõ Nường, nó là dòng Lễ hội vòng đời “hèm tục” phổ biến khắp vùng Đông Nam Á cổ, nhưng đã bị thất truyền từ giữa đầu thế kỷ XX do cuộc chiến tranh của Nhật ở vùng này.
Giám đốc của chúng tôiPham LongBài viết về Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam Nguyễn Thế Vinh, người đã lãnh đạo "Anh cả đỏ" của nghệ thuật kịch Việt Nam suốt 5 năm đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP Pham LongChính phủ vừa ban hành Nghị định số 109/2017/NĐ-CP quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Có hiệu lực thi hành từ ngày 10.11.2017, với 4 chương, 24 điều,.
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịchPham LongBài viết về Thanh Hương, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban ă hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên, Nhi đồng của Quố Hội, nhà viết kịch và một phụ nữ can trường.
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONGPham LongTiểu thuyết của Phạm Việt Long phản ánh một giai đoạn chuyển mình của đất nước từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Tác phẩm được vào vòng Chung khảo cuộc thi Tiểu thuyết Việt Nam lần thứ 3 do Hội Nhà văn tổ chức.
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt LongPham LongTiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội ă học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB ă học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONGPham LongTiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội ă học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB ă học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1Pham LongTiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội ă học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB ă học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngPham LongNghiên cứu hương ước của Hà Nội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng là dịp khơi nguồn văn hóa truyền thống, giúp cho người quan tâm đến lĩnh vực quan trọng này tiếp xúc trực tiếp với văn bản mà “gạn đục khơi trong”và từ đây có thể rút ra những điều cần thiết cho việc xây dựng những bản quy ước văn hóa mới cho mỗi xã, phường, thị trấn .
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNGPham LongXung quanh sự kiện vua Mạc Đăng Dung thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà nghiên cứu đã phê phán, nhận xét, theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chứng minh rằng, Mạc Đăng Dung không những không có tội mà còn có công lớn đối với đất nước.
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập caoPham LongNgười Đà Lạt rất năng động, họ không chỉ học theo mà còn sáng tạo làm theo cách của mình như tìm kiếm những loại giống cây mới, lạ, chất lượng như cà chua đen, ớt sừng bò, ớt chuông, dưa hấu Mỹ, bầu bí khổng lồ,… và đều thắng lớn. Những gia đình năng động đó có thu nhập không dưới 500 triệu đồng/ha/năm.
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiPham Long Ban Tổ chức cuộc thi Thiếu nhi vẽ tranh về chủ đề văn hóa giao thông vừa công bố danh sách 68 tác phẩm đoạt giải của cuộc thi này. Được khởi xướng từ năm 2011, với sự tham gia của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam Cục Mỹ thuật (Bộ ă hóa, Thể thao và Du lịch), cuộc thi vẽ tranh này đã qua nhiều cuộc trao giải và triển lãm tranh, thu hút hàng vạn thiếu nhi cả nước tham gia.
Lễ hội Bát Hải Long vươngPham LongTrên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
Người thầy đầu tiênPham LongSau này, tôi dự thính hai khóa sau đại học, các G.S dạy văn hóa Việt Nam, tôi thấy không mấy thầy dạy sâu sắc và truyền cảm như vị Thầy đầu tiên của tôi.
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1192 - vanhien.vnPham Long
Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức
1. Thư ngỏ gửi tác giả Tạ Đức.
Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn Hà Nội ngày 22 tháng 8 năm 2016.
Nhà Dân tộc -Âm hhạc học.
Sách Nguồn gốc người Việt-người Mường của Tạ Đức công bố rừ năm 2014,
được nhiều người khen, do không hiểu biết về nguồn gốc tư liệu, còn người phê phán
là các nhà khoa học. Bởi nội dung sách không phải do Tạ Đức nghiên cứu mà truy cập
qua mạng do các tác giả châu Âu ă kì thanh bất kiến kì hình mà viết về nguồn gốc
người Việt. Là nó bắt nguồn từ nhà khảo cổ học người Thụy Điền OIov Janse trong
cuốn “Việt Nam carrefour des peuples et de civilisations” é,
d. France đã kết luận : “Về
Việt Nam thì nền văn minh Đông Sơn hình như phần lớn của dân nguyên thủy Mã Lai,
và tầng văn minh về sau là của chủng tộc phần lớn nguồn gốcThái”. Trong một số giai
đoạn lịch sử người Đông Sơn có quan hệ gắn bó với các nước ở Viễn Đông và các nước
có nền văn hóa chính thống như Trung Quốc (Classic) . OIov Janse từ năm 1932 -1938
khai quật một số ngôi mộ cổ ở Thạch Trường Thanh Hóa và ở Bắc Ninh(1)
. Hiện vật
trong mộ là của các thế kỉ trước và sau C.N mà phát biểu về sự hình thành của một
dân tộc có nguồn gốc lịch sử 20 ngàn năm trở lại. Dù nhận định sai nhưng được Viện
Bảo tàng Quốc gia Pháp và Mỹ “bảo lãnh” vì 2 đơn vị đó ủy nhiệm cho OIov Janse
công việc khảo cổ ở Việt Nam và Philippin. Cho nên các nhà nghiên cứu khác theo đó
mà xào xáo thành những bài viết của mình và Tạ Đức copi luôn mới biết “nguồn gốc”
của hàng trăm dân tộc ở Đông Nam Á và Hàn Quốc. Tôi nghe Tạ Đưc nói thế mà buồn
cười, song mặc kệ. Nhưng nghĩ lại là người Việt Nam mà “mặc kệ” là thiếu trách
nhiệm.
Ngay những nhà khoa học châu Âu chân chính như nhà Bác học Pháp
L.Bezacier có những hiểu biết sâu rộng về lịch sử văn minh Việt Nam, cuối đời năm
1972 khi hệ thống lại các công trình của mình cũng đã phải thốt lên lời chua chát rằng:
Phương Tây sau gần một thế kỷ ( giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX) nghiên cứu,
hoàn toàn không hiểu, không biết gì chắc chắn cả về nguồn gốc của trống đồng, cũng
như về công dụng và ý nghĩa của nó (
2)
- Nói trống đồng tức là nói nền văn hóa Việt
Nam. Vì thế, tôi hỏi Tạ Đức một điểm như sau.
Nguồn gốc về sự hình thành của một dân tộc có hai cứ liệu: Một là lời Truyền
miệng cùng gia phả, mộ chí và tục thờ cúng Tổ tiên ; hai là tập tục và di vật (khảo cổ).
Ở dân tộc ta, về cứ liệu thứ nhất là sách sử loại chữ Khoa đẩu, nhưng đã bị tàn
phá và xuyên tạc trong ngàn năm Bắc thuộc. Phải đến khi dân tộc ta giành được quyền
tự chủ các bậc Tiên triết đã cóp nhặt từng mảnh vụn để viết về nguồn gốc của dân tộc,
dần dà bổ sung làm thành bốn tập Thời Hùng Vương Dựng Nước. Còn di vật là lời nói
trung thực khách quan nhất được chôn dấu trong lòng đất- Những di vật ấy xuất hiện từ
khi Tổ tiên dân tộc ta mới có nhận thức. Từ Thập kỉ 60 của Thế kỉ 20 đến nay, do giới
khảo cổ của ta khai quật đưa lên mặt bàn.
Đặc biệt: Hiện vật nơi sinh ra con người các dân tộc đều có biểu tượng: Ấn Độ
là Liga Yoni hóa thành thần Siva, Trung Quốc biểu tượng thành chữ “tổ” ( ) trong
chữ “tổ” có bộ thả ( ) nguyên ý là chỉ bộ phận sinh thực của nam giới (tượng hình)
(
3)
, còn dân tộc ta gọi là Nỏ Nường.
Hiện vật Nỏ Nường xuất hiện từ thời đại đồ đá. Đó là đôi thỏi đá ở hang Ki,
huyện Võ Nhai Thái Nguyên (ảnh 1), đôi bàn nghiền bằng đá hình 3 góc ở hang đá Hòa
Bình và Quỳnh ă Nghệ An (ảnh 2). Hai loại hiện vật này đang trưng bày ở Viện Bảo
1
2. tàng Quốc gia Hà Nội. Tính truyền kì của nó đền thời đương đại là cái cuốc chim và
lưới cày bướm (ảnh 3).
Ảnh 1a . Đôi thỏi đá: Ảnh 2 . Đôi bàn nghiền bằng đá Bảo tàng.
Nguồn Trần Tiêu- Đăng Kỉnh. Ảnh của tác giả.
Ảnh 3a. Cái cuốc chim: Ảnh 3 b: Lưỡi cày bướm:
Ảnh của tác giả Nguồn của Hà ă Tấn
Về ngôn ngữ. Đứa bé sinh ra con trai gọi là thằng Cò, con gái gọi là cái Hĩm, cha
mẹ đứa bé cũng gọi theo tên con là anh chị Cò, hay anh chị Hĩm; cụ già 80 tuổi mà có
đứa chắt con trai thì cụ được gọi là cụ chắt Cò. Còn tên người đang sống đều kiêng.
Vậy Tạ Đức cho người Mường có gốc từ người Mon, Man đến trước chủ nhân
của văn hóa Phùng Nguên, còn Việt có gốc là người Lava đến sau tạo nên văn hóa
Đông Sơn- nghĩa là không qua thời kì chuẩn bị. Thế là “thần Đèn” chăng.
Việc nghiên cứu nguồn gốc của một dân tộc không thể cắt lát từng giai đoạn thế
được mà phải đi từ khởi nguồn cho đến ngày nay là cùng một dòng tư tưởng và sắc thái,
qua hiện vật khảo cổ. Di vật của dân tộc ta theo “đôi” và “tứ” tất cả chúng đều hướng
sang bên phải, ngay cả đôi chữ “S” và đôi đầu rồng (ảnh 4a b). Đó là vận hành vòng
tròn theo chiều ngược kim đồng hồ. Động thái này được thể hiện trong tập tục của dân
tộc từ khởi thủy cho đến đương đại: Đó là vận hành vòng tròn ngược chiều kim đồng
hồ trong nghi lễ; ở đời thường là gọt vỏ trái cây đặt lưỡi quay ra, xay lúa, dần sàng gạo,
xoay bàn nghiền đồ gốm (không tính làm đồ gốm mới); đi thể dục ở bờ hồ v.v.; đặc biệt
người Kinh khi khởi hành thì chân phải bước trước, ngay từ trẻ mới tập đi là đã theo tập
tính di truyền này.
2
3. Ảnh 4 a. đôi chữ S. Ảnh 4b đôi đầu rồng.
Ngay cái vật hèm mà Mã Viện gọi là đồng cổ (trống đồng) thì đã được Tổ Tiên
chúng ta dân tộc Kinh phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài, từ khởi thủy là hoa
văn Núi Đọ Thanh Hóa (ảnh 5 )- ở ảnh 5 này số lượng (cánh sao) chưa rõ.
Ảnh 5: nguồn Hoàng Xuân Chinh.
Đến ảnh 6: Hình a tìm thấy ở khu mộ Đông Sơn, các cánh vẫn chưa rõ, nhưng
đến hoa văn Phùng Nguyên hình b gần rõ 12 cánh và hình c là 14 cánh . Hình 14 cánh
này nó là cơ sở của hình 14 cánh trên hoa văn Thần Đồng Ngọc Lũ (Hà ă Tấn)
Ảnh 6a b,c .
Ảnh 6 a Nguồn của V.Gôlubép (V.Goloubew), ảnh 6 b và 6 c nguồn của Hà ă
Tấn, sách Theo dấu các văn hoá cổ, Nxb Khoa học xã hội, 1998: 3 hình này ở các trang
hình 6 a là (hình 4 trang 602), hình 6b là ( hình 23trang 612) và hình 6c là (hình 34
trang 659).
Nếu Tạ Đức dùng biện luận và di vật để bác bỏ được 6 ảnh này tôi mới coi Tạ
Đức là người nghiên cứu. Còn loại di vật bằng ngọc của vùng Triết Giang mà Tạ Đức
dẫn thì thần thái khác xa thần thái di vật của cư dân sông Hồng.
Trong khi đó, tôi khâm phục T.S. Nuyễn Việt đúng là nhà nghiên cứu, thành quả
không được hàng mấy trăm trang sách, nhưng để đời không ai chê trách, chỉ biết tôn
trọng.
Tôi đã có bài dài đầy đủ hơn: Bàn thêm về Nguồn gốc người Việt –người
Mường của Tạ Đức.
3
4. Tạ Đức có nói mong mỏi ai có ý kiến gì gửi đến cho Tạ Đức theo địa chỉ, nên
Minh sơn gửi bài này.
Email: duongdinhminhson2012@gmail.com
1 OIov Janse, Bí mật của cây đèn hình người Bảo tàng Lịch sử Việt Nam 2000 tr 2.
2.
Dẫn theo Phạm Huy Thông Lời giới thiệu sách Dong Son Drums in Việt Nam, Viện
khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội 1998, tr274.
3
.Trần Chí Lương (Trung Quốc), Đối thoại với Tiên triết về văn hoá phương Đông thế
kỉ XXI, N.x.b Đại học quốc gia Hà Nội 1999 tr 49.
4