2.
Mưa axít là hiện tượng mưa mà nước
mưa có độ pH dưới 5,6. Đây là hậu quả
của quá trình phát triển sản xuất con
người tiêu thụ nhiều than đá, dầu
mỏ và các nhiên liệu tự nhiên khác.
3.
Cơ quan thông tin năng lượng Hoa
Kỳ (EIA) ước tính năm 2006 rằng nguồn
năng lượng nguyên thủy bao gồm 36,8%
dầu mỏ, than 26,6%, khí thiên nhiên
22,9%, chiếm 86% nhiên liệu nguyên
thủy sản xuất trên thế giới. Các nguồn
nhiên liệu không hóa thạch bao gồmthủy
điện 6,3%, năng lượng hạt
nhân 6,0%, và năng lượng địa
nhiệt, năng lượng mặt trời,năng lượng
gió, nhiên liệu gỗ, tái chế chất thải chiếm
0,9%.[4] Tiêu thụ năng lượng trên thế giới
tăng mỗi năm khoảng 2,3%.
11.
Trong thành phần các chất đốt tự
nhiên như than đá và dầu mỏ có chứa
một lượng lớn lưu huỳnh, còn
trong không khí lại chứa nhiều nitơ.
Quá trình đốt sản sinh ra các khí độc
hại như :lưu huỳnh đioxit (SO2) và nitơ
đioxit (NO2). Các khí này hòa tan
vớihơi nước trong không khí tạo thành
các axit sunfuric (H2SO4) và axit
nitric(HNO3). Khi trời mưa, các
hạt axit này tan lẫn vào nước mưa, làm
độ pH của nước mưa giảm. Nếu nước
mưa có độ pH dưới 5,6 được gọi là
mưa axit. Do có độ chua khá lớn,
12.
nước mưa có thể hoà tan được một số
bụi kim loại và ôxit kim loại có trong
không khí như ôxit chì,... làm cho nước
mưa trở nên độc hơn nữa đối với cây
cối, vật nuôi và con người.
13. Quá trình này diễn ra theo các phản ứng hoá
học sau đây:
Lưu huỳnh:
S + O2 → SO2;Quá trình đốt cháy lưu huỳnh
trong khí oxi sẽ sinh ra lưu huỳnh
điôxít.SO2 + OH· → HOSO2·;Phản ứng hoá
hợp giữa lưu huỳnh điôxít và các hợp chất
gốc hiđrôxit.HOSO2· + O2 → HO2· +
SO3;Phản ứng giữa hợp chất gốc HOSO2· và
O2 sẽ cho ra hợp chất gốc HO2· và SO3 (lưu
huỳnh triôxít).SO3(k) + H2O(l) → H2SO4(l);Lưu
huỳnh triôxít SO3 sẽ phản ứng với nước và
tạo ra axít sulfuric H2SO4. Đây chính là thành
phần chủ yếu của mưa axít.Nitơ:
N2 + O2 → 2NO;2NO + O2 → 2NO2;3NO2(k)
+ H2O(l) → 2HNO3(l) + NO(k);Axít
nitric HNO3 chính là thành phần của mưa
axít.
16.
Tác hại của nó:Mưa axit được phát hiện
ra đầu tiên năm 1952 nhưng đến
những năm 1960 thì các nhà khoa học
mới bắt đầu quan sát và nghiên cứu về
hiện tượng này
19.
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới các thuỷ vực (ao,
hồ). Các dòng chảy do mưa axit đổ vào hồ,
ao sẽ làm độ pH của hồ giảm xuống, lượng
nước trong ao hồ sẽ giảm đi nhanh chóng,
các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết
hoàn toàn. Hồ, ao trở thành các thuỷ vực
chết.
Mưa axit ảnh hưởng xấu tới đất do nước mưa
ngấm xuống đất làm tăng độ chua của đất,
hoà tan các nguyên tố trong đất cần thiết
cho cây như canxi (Ca), magiê (Mg)... làm
suy thoái đất, cây cối kém phát triển. Lá cây
gặp mưa axit sẽ bị "cháy" lấm chấm, mầm sẽ
chết khô, làm cho khả năng quang hợp của
cây giảm, cho năng suất thấp. Mưa axit còn
phá huỷ các vật liệu làm bằng kim loại
nhưsắt, đồng, kẽm,... làm giảm tuổi thọ các
công trình xây dựng, làm lở loét bề mặt bằng
đá của các công trình.
20.
Mưa axit gây hư hại các công
trình, song cũng đem lại lợi ích đáng
kể. Các nhà khoa học vừa phát hiện
thấy những cơn mưa chứa axit
sunphuaric làm giảm phát thải
methane từ những đầm lầy (đầm lầy là
nơi sản ra lượng lớn khí methane), nhờ
đó hạn chế hiện tượng Trái Đất nóng
lên.
22.
Lợi ích của mưa axit: Một cuộc điều tra toàn cầu
mới đây đã cho thấy thành phần sunphua trong
các cơn mưa này có thể ngăn cản Trái Đất ấm
lên, bằng việc tác động vào quá trình sản xuất khí
methane tự nhiên của vi khuẩn trong đầm lầy.
Methane chiếm 22% trong các yếu tố gây ra hiệu
ứng nhà kính. Và các vi khuẩn ở đầm lầy là thủ
phạm sản xuất chính. Chúng tiêu thụ chất nền
(gồm hydro và axetat) trong than bùn, rồi giải
phóng methane vào khí quyển. Nhưng trong đầm
lầy ngoài vi khuẩn sinh methane, còn có vi khuẩn
ăn sunphua cạnh tranh thức ăn với chúng. Khi mưa
axit đổ xuống, nhóm vi khuẩn này sẽ sử dụng
sunphua, đồng thời tiêu thụ luôn phần chất nền
đáng lý được dành cho vi khuẩn sinh methane. Do
vậy, các vi khuẩn sinh methane bị "đói" và sản
xuất ra ít khí nhà kính. Nhiều thí nghiệm cho thấy
phần sunphua lắng đọng
có thể làm giảm quá trình sinh methane tới 30%.
23.
Một điều nghịch lý là chính các biện
pháp chống ô nhiễm, áp dụng ở khu
vực xung quanh những cơ sở sản xuất
điện, lại góp phần gieo rắc mưa axit
trên diện rộng
24.
Do các nhà máy buộc phải xây ống
khói thật cao nhằm tránh ô nhiễm cho
môi trường địa phương, các hóa chất
gây mưa axit đã lan tỏa đi xa hàng
trăm, thậm chí hàng nghìn km khỏi
nguồn.
26.
Để giảm lượng khí thải SO2 từ các nhà máy nhiệt điện xuống
còn 7,84 tỷ tấn năm 2020, trước năm 2005, 80% các nhà
máy nhiệt điện phải lắp đặt thiết bị khử sunphua. Đây cũng là
một trong những giải pháp hạn chế mưa axít mà nhà nước
Trung Quốc đã đề ra năm ngoái. Các nhà máy nhiệt điện lắp
đặt thiết bị này sẽ được bán điện với giá cao hơn. Tuy
nhiên, quy định này không dễ thực hiện đối với các nhà máy
nhiệt điện lâu đời. Rất ít trong số nhà máy này lắp đặt thiết bị
khử sunphua bởi vì để lắp đặt được hệ thống khử sunphua
hiệu quả phải chi khoản tiền trị giá 1/3 tổng đầu tư xây dựng
một nhà máy nhiệt điện. Họ thà bị phạt còn hơn phải lắp đặt
hệ thống khử sunphua. Năm ngoái, Chính phủ Trung Quốc
tăng lượng phạt khí thải SO2 từ 210 NDT (Nhân dân tệ-đơn vị
tiền tệ của Trung Quốc) lên 420 NDT/tấn, năm tới mức phạt
sẽ là 630 NDT. Ở tỉnh Quý Châu, chỉ có 2 trong số 9 nhà máy
nhiệt điện lắp đặt thiết bị này. Các chuyên gia cho rằng, chính
phủ nên rót thêm tiền để nâng cấp nhà máy lâu đời.