ݺߣ

ݺߣShare a Scribd company logo
Gvhd-Ths Đinh Thiện ʳươԲ
I     Tình hình sử dụng chữ viết ở Việt Nam


II    Giới thiệu về Chữ Quốc Ngữ


III   Tại sao CQN lại được sử dụng chính thức cho tới ngày nay


IV    Kết luận


                                                           2
I. Tình hình sử dụng chữ viết ở Việt Nam




  Việt nam chúng ta sau khi giành được độc lập khỏi
  ách đô hộ của giặc tàu ở thế kỷ 10 nhưng kéo dài mãi
  đến đầu thế kỷ 20, các triều đại vua chúa trị vì Việt
  Nam vẫn sử dụng chữ Hán như chữ viết chính thức
  trong công cuộc ghi chép sử sách, văn từ hành chánh
  và trong thi cử.                                     3
 Về phần chữ Nôm được hình thành vào khoảng thế
 kỷ thứ 12-13 sau khi đất nước giải phóng khỏi giặc
 tàu, nhưng chữ Nôm được sử dụng không chính
 thức, ngoại trừ hai khoảng thời gian trị vì ngắn ngủi
 của nhà Hồ (1400-1407) và của nhà Nguyễn Tây Sơn
 (1788-1802).

 Về phần chữ quốc ngữ, được hình thành vào giữa thế
  kỷ 17 nhưng đến giữa thế kỷ 19 mới được chính thức
  sử dụng.
                                                     4
II. GIỚI THIỆU VỀ CHỮ QUỐC NGỮ


1.Nguồn gốc Chữ Quốc Ngữ

Chữ Việt ngày nay là một thứ chữ đã được nhiều linh mục
Dòng Tên cùng với sự cộng tác của một số người Việt Nam
vào thế kỷ 17 sáng tạo ra. Họ đã dùng các mẫu tự Latinh, rồi
dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hy
Lạp, để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng.




                                                        5
Dòng Tên(The Society of Jesus )
• Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu, là một dòng tu lớn
  của Ky tô Giáo. Được thành lập bởi Lm Inhaxiô, người Tây Ban
  Nha, và các cộng sự viên vào năm 1535 tại Paris. Ngày
  27.9.1540, ĐGH Phaolô III chính thức phê chuẩn Đoàn Giêsu
  thành một dòng tu giáo sĩ trong Hội Thánh. Mười thành viên
  trong dòng tu mới lập đều nhất trí bầu cha I-nhã làm Bề trên
  Tổng Quyền tiên khởi (1540-1556).
• Sau khi được chuẩn nhận để trở thành Dòng tu, các Giêsu hữu
  đầu tiên đã hăng say phục vụ Giáo Hội trong khắp Châu Âu. Các
  Giêsu hữu cũng được sai đi khắp nơi trên thế giới để loan báo Tin
  Mừng: đến Châu Á (từ 1542), Châu Phi (1548), đến Nam Mỹ
  (1552), và Bắc Mỹ (1639). Một nét đặc biệt trong công cuộc loan
  báo Tin Mừng của các Giêsu hữu ở Châu Á đó là việc hội nhập
  văn hoá: ở Ấn Độ do Roberto de Nobili, ở Trung Hoa do Mateo
  Ricci, ở Việt Nam do Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ).                  6
2.Sự hình thành và phát triển của Chữ Quốc Ngữ (3 giai đoạn)



                                   a.Thời kỳ sáng tạo (từ năm 1615)




b.Thời kỳ xây dựng (từ năm 1651)



                                              c.Thời kỳ phát triển (từ năm 1701)



                                                                              7
Giới Thiệu Một Số Người Có Đóng Góp Lớn



  • Lm Francisco de Pina
    Là người Âu châu đầu tiên nói thạo Tiếng
    Việt. Pina sinh năm 1585 ở Bồ Đào Nha, tới
    đàng trong vào năm 1617 và ông cũng là thầy
    giúp dạy Tiếng Việt cho Alexandre De Rhodes


                                              8
Giới Thiệu Một Số Người Có Đóng Góp Lớn

• Alexandre De Rhodes
 Alexandre De Rhodes sinh ngày
 15-3-1593 tại Avignon, miền Nam
 nước Pháp. Ông là linh mục Dòng
 Tên, được cử sang Nhật truyền
 đạo. Nhật Bản cấm đạo. Năm
 1624, sau một năm chờ đợi học
 tiếng Nhật ở Ma Cao, ông được
 phái vào Đàng Trong (Hội An) và
 nhanh chóng học được tiếng Việt
 (lấy tên Việt là Đắc Lộ). 1654 Đắc
 Lộ đi Batư và qua đời tại đó vào
 5-11-1660.                               9
a.Thời kỳ sáng tạo (từ năm 1615)



• Đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Dòng Tên(DT) gồm
  người Âu châu và một số ít người Trung Hoa, Nhật Bản
  chính thức đến truyền bá Phúc âm ở Việt nam.

• Năm 1620 các tu sĩ DT tại Hội An đã soạn thảo một sách
  giáo lý bằng chữ Nôm, cuốn sách này có sự cộng tác của
  người Việt và cũng được chép tay bằng Chữ Quốc Ngữ bởi
  Linh mục(Lm) Francisco de Pina, nhưng ngày nay không
  còn thấy cuốn giáo lý trên.
                                                         10
Có 7 tài liệu để chứng minh cho giai đoạn sơ khởi
                của chữ Quốc ngữ:

• TL viết tay năm 1621 của Joao Roiz
• TL viết tay năm 1621 và 1626 của Gaspar luis
• TL năm 1621 của Cristoforo Borri
• TL viết tay năm 1625 của Đắc Lộ
• TL viết tay năm 1626 của Antonio de Fontes
• TL viết tay 1626 của Francesco Buzomi.
Vd: Núocman: Nước mặn
    Bude: Bồ đề
    Thien chu: Thiên chúa                           11
Chữ Quốc Ngữ 1631-1648


    Có nhiều tài liệu của hai Lm Đắc Lộ và Gaspar
    d’Amaral là đáng lưu ý nhất.

    Được viết khá đúng về hai phương diện: cách
    ngữ (đã có khoảng cách giữa các chữ) và dấu.

    Vd: Chúa oũ: chúa ông
        Cai phu: cai phủ
        Qui nhin: Qui nhơn

                                                    12
b.Thời kỳ xây dựng năm 1651


Vào năm 1651 Lm Đắc lộ soạn thảo và cho xuất bản
hai sách chữ Quốc Ngữ đầu tiên, gồm hai cuốn
Dictionarium (từ điển Việt Nam- Bồ Đào Nha- La-
tinh) và Cathechismus (giáo lý).

Ngoài ra vào năm 1659 còn có ba tài liệu viết tay của
hai người Việt nam: gồm một của Igesico Văn tín và
hai của Bento Thiện.


                                                        13
(Tài liệu viết tay và mặt trước từ điển)
                                           14
Nguồn gốc các ký hiệu để ghi các thanh


• Bao gồm: 6 thanh
• Ngữ pháp tiếng Việt nói tới sáu thanh trong
  Việt ngữ, nhưng thực ra chỉ cần năm kí hiệu là
  đủ, vì thanh bằng không cần phải có kí hiệu.
• Các thanh: sắc, hỏi, nặng, ngã: nguồn gốc từ
  tiếng Hy Lạp, thanh huyền: Latinh



                                                   15
C.Thời kỳ phát triển từ năm 1701
• Từ năm 1773 đến 1815 Bá Đa Lộc soạn từ
  điển mang tên Dictionarium Annamatico-
  latinum đã hoàn thành nhưng chưa được in
  ra (bản viết tay nay còn giữ ở Văn khố Hội
  Truyền giáo Paris).
• Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là
  cuốn từ điển của giáo sĩ Jean-Louis
  Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa
  chữa của Giám mục Bá Đa Lộc. Mang
  tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng
  Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc
  là Dictionarium Annamatico-latinum) được
  in ở Serampore, Ấn Độ. Toàn bộ vần quốc
  ngữ như chúng ta sử dụng ngày nay được
  ghi nhận trong sách này.                     16
Những biến đổi về Vần Quốc Ngữ


                                                    1. Vần Latinh:



A           B   C   D   E   F   G       H   I   K   L   M N O        P    Q   R   S   T   V   X       Y    Z



                                        2. Vần Quốc Ngữ Năm 1651 Đắc Lộ



A       Â   B BV C      D   Đ   E   Ê   G   H   I   K   L   M N O Ô Ơ P       Q   R   S   T   U Ư     X    Y



                                        3. Vần Quốc Ngữ Năm 1838 Taberd



A   Ă   Â   B       C   D   Đ   E   Ê   G   H   I   K   L   M N O Ô Ơ P       Q   R   S   T   U Ư V   X    Y



                                                                                                          17
• Đến năm 1865, xuất hiện Gia Định
  báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc
  Ngữ ra đời tại Sài Gòn.
• Năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh sáng
  lập Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu
  tiên bằng chữ Quốc Ngữ ở miền
  Bắc.
• Năm 1913, ông xuất bản Đông
  Dương tạp chí dạy dân Việt viết văn
  bằng chữ Quốc Ngữ, thúc đẩy xã hội
  Việt Nam dùng chữ Quốc Ngữ thay
  chữ Hán, chữ Nôm.
                                        18
• Những năm 1930- 1945 phong trào thơ Mới và
  văn chương Tự lực văn đoàn bừng nở, tạo sự phát
  triển rực rỡ chưa từng có của chữ Quốc Ngữ

• Sau ngày ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ
  Cộng Hòa (02/ 09/ 1945), chữ Quốc Ngữ được
  dùng như văn tự chính thống của Việt Nam cả
  trong hoạt động của nhà nước lẫn trong mọi sinh
  hoạt dân sự                                  19
III. TẠI SAO CQN LẠI ĐƯỢC SỬ DỤNG
     CHÍNH THỨC CHO TỚI NGÀY NAY?


Sự ra đời một thứ chữ viết sẽ chỉ là một sự kiện không
quan trọng, không ai chú ý đến, nếu nó không trở thành
một thiết chế, được áp đặt do một quyền lực chính
trị, được nhìn nhận thích hợp từ những người sử dụng nó.

Do cuộc chinh phục Việt Nam của Pháp càng ngày càng
toả rộng nên sự áp dụng chữ quốc ngữ càng ngày càng
lớn. Ban đầu các nhà nho yêu nước Việt Nam chống sự
truyền bá chữ quốc ngữ, nhưng dần CQN đã trở nên thích
hợp với con người Việt Nam.
                                                       20
IV.KẾT LUẬN
 CQN một loại chữ đã được sáng chế từ hơn 4 thế kỷ kể từ ngày
  đầu, nhưng nó vẫn được sử dụng tới ngày nay, phần nào chúng ta có
  thể thấy được sự phù hợp của nó với nhu cầu nghi lại ý tưởng của
  con người Việt Nam.
 Biết được nguồn gốc và tiến trình hình thành của chữ Quốc
  ngữ, chúng ta mới biết được rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc
  Lộ là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có
  nhiều người khác, gồm các Linh mục Tây phương và người Việt
  Nam đã tham gia vào quá trình này, góp phần tích lũy và làm hoàn
  thiện dần dần CQN như ngày nay. Nhưng linh mục Đắc Lộ là người
  được nhắc đến nhiều nhất vì ông đã xuất bản hai sách CQN đầu
  tiên, đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử chữ viết của dân
  tộc.
 CQN còn là điểm đến của những nỗ lực, qua thời gian CQN đã ngày
  một hoàn thiện hơn và xứng đáng trở thành chữ viết của một dân  21
  tộc, một quốc gia.
•   1. Lê Thị Lụa
•   2. Vũ Viết Chỉnh
•   3. Phạm Thanh Huy
•   4. Nguyễn Thị Thoa
•   5. Bùi ʳươԲ Anh
•   6. Nguyễn Thị Vương
•   7. Lê Thị Ngọc Diễm
•   8. Trần Thị Như Thảo
•   9. Nguyễn Thị Kim Anh
•   10. Nguyễn Thị Long Huế
•   11. Nguyễn Thị Kim Ngọc

More Related Content

thuyết trình chữ quốc ngữ

  • 2. I Tình hình sử dụng chữ viết ở Việt Nam II Giới thiệu về Chữ Quốc Ngữ III Tại sao CQN lại được sử dụng chính thức cho tới ngày nay IV Kết luận 2
  • 3. I. Tình hình sử dụng chữ viết ở Việt Nam Việt nam chúng ta sau khi giành được độc lập khỏi ách đô hộ của giặc tàu ở thế kỷ 10 nhưng kéo dài mãi đến đầu thế kỷ 20, các triều đại vua chúa trị vì Việt Nam vẫn sử dụng chữ Hán như chữ viết chính thức trong công cuộc ghi chép sử sách, văn từ hành chánh và trong thi cử. 3
  • 4.  Về phần chữ Nôm được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 12-13 sau khi đất nước giải phóng khỏi giặc tàu, nhưng chữ Nôm được sử dụng không chính thức, ngoại trừ hai khoảng thời gian trị vì ngắn ngủi của nhà Hồ (1400-1407) và của nhà Nguyễn Tây Sơn (1788-1802).  Về phần chữ quốc ngữ, được hình thành vào giữa thế kỷ 17 nhưng đến giữa thế kỷ 19 mới được chính thức sử dụng. 4
  • 5. II. GIỚI THIỆU VỀ CHỮ QUỐC NGỮ 1.Nguồn gốc Chữ Quốc Ngữ Chữ Việt ngày nay là một thứ chữ đã được nhiều linh mục Dòng Tên cùng với sự cộng tác của một số người Việt Nam vào thế kỷ 17 sáng tạo ra. Họ đã dùng các mẫu tự Latinh, rồi dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hy Lạp, để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng. 5
  • 6. Dòng Tên(The Society of Jesus ) • Dòng Tên (còn gọi là Dòng Chúa Giêsu, là một dòng tu lớn của Ky tô Giáo. Được thành lập bởi Lm Inhaxiô, người Tây Ban Nha, và các cộng sự viên vào năm 1535 tại Paris. Ngày 27.9.1540, ĐGH Phaolô III chính thức phê chuẩn Đoàn Giêsu thành một dòng tu giáo sĩ trong Hội Thánh. Mười thành viên trong dòng tu mới lập đều nhất trí bầu cha I-nhã làm Bề trên Tổng Quyền tiên khởi (1540-1556). • Sau khi được chuẩn nhận để trở thành Dòng tu, các Giêsu hữu đầu tiên đã hăng say phục vụ Giáo Hội trong khắp Châu Âu. Các Giêsu hữu cũng được sai đi khắp nơi trên thế giới để loan báo Tin Mừng: đến Châu Á (từ 1542), Châu Phi (1548), đến Nam Mỹ (1552), và Bắc Mỹ (1639). Một nét đặc biệt trong công cuộc loan báo Tin Mừng của các Giêsu hữu ở Châu Á đó là việc hội nhập văn hoá: ở Ấn Độ do Roberto de Nobili, ở Trung Hoa do Mateo Ricci, ở Việt Nam do Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). 6
  • 7. 2.Sự hình thành và phát triển của Chữ Quốc Ngữ (3 giai đoạn) a.Thời kỳ sáng tạo (từ năm 1615) b.Thời kỳ xây dựng (từ năm 1651) c.Thời kỳ phát triển (từ năm 1701) 7
  • 8. Giới Thiệu Một Số Người Có Đóng Góp Lớn • Lm Francisco de Pina Là người Âu châu đầu tiên nói thạo Tiếng Việt. Pina sinh năm 1585 ở Bồ Đào Nha, tới đàng trong vào năm 1617 và ông cũng là thầy giúp dạy Tiếng Việt cho Alexandre De Rhodes 8
  • 9. Giới Thiệu Một Số Người Có Đóng Góp Lớn • Alexandre De Rhodes Alexandre De Rhodes sinh ngày 15-3-1593 tại Avignon, miền Nam nước Pháp. Ông là linh mục Dòng Tên, được cử sang Nhật truyền đạo. Nhật Bản cấm đạo. Năm 1624, sau một năm chờ đợi học tiếng Nhật ở Ma Cao, ông được phái vào Đàng Trong (Hội An) và nhanh chóng học được tiếng Việt (lấy tên Việt là Đắc Lộ). 1654 Đắc Lộ đi Batư và qua đời tại đó vào 5-11-1660. 9
  • 10. a.Thời kỳ sáng tạo (từ năm 1615) • Đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Dòng Tên(DT) gồm người Âu châu và một số ít người Trung Hoa, Nhật Bản chính thức đến truyền bá Phúc âm ở Việt nam. • Năm 1620 các tu sĩ DT tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ Nôm, cuốn sách này có sự cộng tác của người Việt và cũng được chép tay bằng Chữ Quốc Ngữ bởi Linh mục(Lm) Francisco de Pina, nhưng ngày nay không còn thấy cuốn giáo lý trên. 10
  • 11. Có 7 tài liệu để chứng minh cho giai đoạn sơ khởi của chữ Quốc ngữ: • TL viết tay năm 1621 của Joao Roiz • TL viết tay năm 1621 và 1626 của Gaspar luis • TL năm 1621 của Cristoforo Borri • TL viết tay năm 1625 của Đắc Lộ • TL viết tay năm 1626 của Antonio de Fontes • TL viết tay 1626 của Francesco Buzomi. Vd: Núocman: Nước mặn Bude: Bồ đề Thien chu: Thiên chúa 11
  • 12. Chữ Quốc Ngữ 1631-1648 Có nhiều tài liệu của hai Lm Đắc Lộ và Gaspar d’Amaral là đáng lưu ý nhất. Được viết khá đúng về hai phương diện: cách ngữ (đã có khoảng cách giữa các chữ) và dấu. Vd: Chúa oũ: chúa ông Cai phu: cai phủ Qui nhin: Qui nhơn 12
  • 13. b.Thời kỳ xây dựng năm 1651 Vào năm 1651 Lm Đắc lộ soạn thảo và cho xuất bản hai sách chữ Quốc Ngữ đầu tiên, gồm hai cuốn Dictionarium (từ điển Việt Nam- Bồ Đào Nha- La- tinh) và Cathechismus (giáo lý). Ngoài ra vào năm 1659 còn có ba tài liệu viết tay của hai người Việt nam: gồm một của Igesico Văn tín và hai của Bento Thiện. 13
  • 14. (Tài liệu viết tay và mặt trước từ điển) 14
  • 15. Nguồn gốc các ký hiệu để ghi các thanh • Bao gồm: 6 thanh • Ngữ pháp tiếng Việt nói tới sáu thanh trong Việt ngữ, nhưng thực ra chỉ cần năm kí hiệu là đủ, vì thanh bằng không cần phải có kí hiệu. • Các thanh: sắc, hỏi, nặng, ngã: nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, thanh huyền: Latinh 15
  • 16. C.Thời kỳ phát triển từ năm 1701 • Từ năm 1773 đến 1815 Bá Đa Lộc soạn từ điển mang tên Dictionarium Annamatico- latinum đã hoàn thành nhưng chưa được in ra (bản viết tay nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris). • Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là cuốn từ điển của giáo sĩ Jean-Louis Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa chữa của Giám mục Bá Đa Lộc. Mang tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc là Dictionarium Annamatico-latinum) được in ở Serampore, Ấn Độ. Toàn bộ vần quốc ngữ như chúng ta sử dụng ngày nay được ghi nhận trong sách này. 16
  • 17. Những biến đổi về Vần Quốc Ngữ 1. Vần Latinh: A B C D E F G H I K L M N O P Q R S T V X Y Z 2. Vần Quốc Ngữ Năm 1651 Đắc Lộ A Â B BV C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư X Y 3. Vần Quốc Ngữ Năm 1838 Taberd A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y 17
  • 18. • Đến năm 1865, xuất hiện Gia Định báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc Ngữ ra đời tại Sài Gòn. • Năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh sáng lập Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ Quốc Ngữ ở miền Bắc. • Năm 1913, ông xuất bản Đông Dương tạp chí dạy dân Việt viết văn bằng chữ Quốc Ngữ, thúc đẩy xã hội Việt Nam dùng chữ Quốc Ngữ thay chữ Hán, chữ Nôm. 18
  • 19. • Những năm 1930- 1945 phong trào thơ Mới và văn chương Tự lực văn đoàn bừng nở, tạo sự phát triển rực rỡ chưa từng có của chữ Quốc Ngữ • Sau ngày ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (02/ 09/ 1945), chữ Quốc Ngữ được dùng như văn tự chính thống của Việt Nam cả trong hoạt động của nhà nước lẫn trong mọi sinh hoạt dân sự 19
  • 20. III. TẠI SAO CQN LẠI ĐƯỢC SỬ DỤNG CHÍNH THỨC CHO TỚI NGÀY NAY? Sự ra đời một thứ chữ viết sẽ chỉ là một sự kiện không quan trọng, không ai chú ý đến, nếu nó không trở thành một thiết chế, được áp đặt do một quyền lực chính trị, được nhìn nhận thích hợp từ những người sử dụng nó. Do cuộc chinh phục Việt Nam của Pháp càng ngày càng toả rộng nên sự áp dụng chữ quốc ngữ càng ngày càng lớn. Ban đầu các nhà nho yêu nước Việt Nam chống sự truyền bá chữ quốc ngữ, nhưng dần CQN đã trở nên thích hợp với con người Việt Nam. 20
  • 21. IV.KẾT LUẬN  CQN một loại chữ đã được sáng chế từ hơn 4 thế kỷ kể từ ngày đầu, nhưng nó vẫn được sử dụng tới ngày nay, phần nào chúng ta có thể thấy được sự phù hợp của nó với nhu cầu nghi lại ý tưởng của con người Việt Nam.  Biết được nguồn gốc và tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới biết được rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các Linh mục Tây phương và người Việt Nam đã tham gia vào quá trình này, góp phần tích lũy và làm hoàn thiện dần dần CQN như ngày nay. Nhưng linh mục Đắc Lộ là người được nhắc đến nhiều nhất vì ông đã xuất bản hai sách CQN đầu tiên, đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử chữ viết của dân tộc.  CQN còn là điểm đến của những nỗ lực, qua thời gian CQN đã ngày một hoàn thiện hơn và xứng đáng trở thành chữ viết của một dân 21 tộc, một quốc gia.
  • 22. 1. Lê Thị Lụa • 2. Vũ Viết Chỉnh • 3. Phạm Thanh Huy • 4. Nguyễn Thị Thoa • 5. Bùi ʳươԲ Anh • 6. Nguyễn Thị Vương • 7. Lê Thị Ngọc Diễm • 8. Trần Thị Như Thảo • 9. Nguyễn Thị Kim Anh • 10. Nguyễn Thị Long Huế • 11. Nguyễn Thị Kim Ngọc